
Phương pháp trồng trọt cây đậu nành
Quê hương của đậu nành là Đông Nam Châu Á, nhưng 45% diện tích trồng đậu nành và 55% sản lượng đậu nành của Thế giới nằm ở Mỹ. Nước Mỹ sản xuất 75 triệu tấn đậu nành năm 2000, trong đó hơn một phần ba được xuất khẩu. Các nước sản xuất đậu nành lớn khác là Brasil, Argentina, Trung Quốc và Ấn Độ. Phần lớn sản lượng đậu nành của Mỹ hoặc để nuôi gia súc, hoặc để xuất khẩu, mặc dù tiêu thụ đậu nành ở người trên đất nước này đang tăng lên.
Đậu nành có thể trồng được quanh năm nhưng với mỗi thời vụ canh tác khác nhau sẽ ảnh hưởng rõ rệt đến sự sinh trưởng cây trồng, tình hình sâu bệnh, năng suất, phẩm chất hạt, chi phí sản xuất.
Một số thời vụ gieo trồng đậu nành chủ yếu:
- Vụ xuân hè: gieo tập trung từ 15/02 đến 20/03: Diện tích gieo trồng vụ này tập trung ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long (An Giang, Đồng Tháp). Ở miến Bắc đây là vụ đậu nành được trồng nhiều ở các tỉnh Hà Bắc, Lạng Sơn, Cao Bằng. Ở miền Nam thời vụ này đậu nành thường hay bị sâu bệnh gây hại hơn các thời vụ khác.
- Vụ hè thu: gieo trồng thích hợp nhất từ 05/04 đến 20/04. Nhược điểm của vụ này là lúc xuống giống phụ thuộc hoàn toàn vào mưa đầu mùa, thường dẫn đến gặp hạn sau khi gieo, ảnh hưởng tời tỷ lệ mọc mầm và mật độ cây trồng. Vụ này có thời gian chiếu sáng trong ngày dài, vì vậy các giống đậu nành có xu hướng kéo dài thời gian sinh trưởng, thân lá phát triển mạnh. Do đó nên lưu ý mật độ cây trồng này có thưa hơn các vụ khác.
- Vụ thu đông: Thời gian gieo trồng thích hợp cho vụ này từ 15/07 đến 05/08. Đậu nành trồng vụ này ít bị sâu đục quả, thuận lợi cho phơi đập và bảo quản hạt.
- Vụ đông: Tập trung chủ yều ở tỉnh Miền Bắc, thời vụ thích hợp trồng đậu nành từ 20/09 đến 05/10.
- Vụ đông xuân: Thời gian xuống giống của vụ này có thể kéo dài từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 01 năm sau. Đậu trồng vụ này chủ yều tập trung ở đồng bằng Sông Cửu Long, đây là vụ đậu nành thường cho năng suất cao nhất ở các vùng trồng đậu trên cả nước. Đất trồng đậu nành thích hợp nhất là đất thịt nhẹ, tơi xốp, thoát nước, thích hợp trên đất ít chua-trung tính. Đất nghèo dinh dưỡng, nhiễm phèn, vẫn có thể trồng được đậu nành nhưng cần phải thoát nước tốt và tăng cường bón phân lân và vôi.

Phương pháp bảo quản đậu nành
Thời gian cho phép bảo quản phụ thuộc vào đặc tính giống, công nghệ trước thu hoạch, nhiệt độ và ẩm độ không khí lúc bảo quản. Trong đó, nhiệt độ và ẩm độ không khí là yếu tố quan trọng. Giảm càng thấp ẩm độ, càng tăng thêm thời gian bảo quản. Phơi càng khô, bảo quản càng được lâu hơn.
Tuỳ theo cơ sở vật chất có được mà có điều kiện bảo quản khác nhau. Thường sau khi phơi khô 2-3 giờ thì đưa vào bảo quản trong chum, vại hoặc bao tải đã được vệ sinh sạch sẽ. Chum, vại đựng đậu giống phải đựng đầy, có biện pháp chống ẩm.
Bảo quản: Có 2 cách bảo quản đậu nành
Phương pháp cổ truyền:
- Bảo quản bằng chum hoặc lọ: Chum hoặc lọ sành, lọ thủy tinh không bị nứt, nẻ rửa sạch phơi khô, phía dưới đáy cho một lớp vôi bột khô, sau đó rải 1 lớp lá xoan khô rồi đổ đậu giống lên trên. Đổ đậu giống song phủ lên trên một lớp lá xoan, nút kỹ và đưa vào bảo quản nơi khô ráo, thoáng. Có thể đặt dưới đáy lu vài cục than sống trước khi đổ đầy hột vào. Sau đó lại để lên mặt đậu vài cục than sống nữa để hút ẩm, rồi mới đậy nắp kín lại.
- Bảo quản bằng túi ni lon: Đậu tương sau khi phơi khô cho vào 2 lần túi ni lon, phía ngoài cùng là bao xác rắn, buộc kín sau cho vào thùng phi cho vào giữa hòm thóc hoặc cót thóc hoặc để nơi khô ráo thoáng. Có thể cho đậu tương giống vào can nhựa khô sạch xong nút chặt vùi vài trong hòm thóc hoặc cót thóc. Bao đặt trong kho không nên chất quà cao.
Thí nghiệm viện lúa Ô Môn và Nhật:
- Xử lý: Basudin 10H: Liều lượng 10 gram thuốc/10kg đậu nành
Ø Cho vào túi nylong, buộc chặt.
Ø Cho vào keo nhựa, đậy kín.
Ø Bọc tiếp 1 lớp nylong.
Đặt nơi thoáng mát.